Hình thái thế trận Trận_Tát_Nhĩ_Hử

Trận Sarhu (1619)

Tây lộ

Cánh quân của Đỗ Tùng khởi hành từ phía tây Thẩm Dương vào đêm 29 tháng 2 âm lịch và đến ngày 3 tháng 3 âm lịch đã tiến vào được Phủ Thuận mà không tốn chút sức lực nào vì quân Kim đã chủ động rút lui. Cho là quân Kim rút chạy, Đỗ Tùng háo hức muốn tiến quân để nhanh chóng tiêu diệt quân Kim trước khi đại quân kéo đến. Tuy nhiên, cánh quân của Đỗ Tùng đã phải lưu lại tại Phủ Thuân mất 10 ngày do có tuyết lớn, nhưng sau đó Đỗ Tùng đã mất kiên nhẫn và tiếp tục hành quân dù điều kiện không thuận lợi.[6]

Khi quân Đỗ Tùng tiến đến sông Hồn, quân Kim đã kịp thiết lập hệ thống phòng thủ ở phía bên kia sông. Tuy Đỗ Tùng được khuyên rằng nên cắm trại lại để lập phòng tuyến đối lập với quân Kim, nhưng ông ta đã bỏ qua và quyết định đưa 1 vạn quân do chính ông ta chỉ huy vượt sông để tấn công tuyến phòng thủ của quân Kim, để lại 2 vạn quân với các quân trang và vũ khí nặng ở lại trại. Một số tài liệu cho rằng quyết định của Đỗ Tùng được đưa ra khi ông ta đang say rượu. Ông ta cũng được yêu cầu mặc áo giáp nhưng đã từ chối. Trong khi quân Đỗ Tùng mới vượt sông nửa chừng, Nurhaci đã ra lệnh cho quân mình phá vỡ những con đập đã được chuẩn bị và do đó, một phần cánh quân của Đỗ Tùng cùng với quân trang đã bị nước cuốn trôi. Viên chỉ huy phụ trách trại đã cố gắng điều động nhưng bất lực do hỗn loạn.[6]

Đêm đó, Đỗ Tùng chia lực lượng của mình thành hai cánh, một ở đèo Sarhu và một ở đồn Giới Phàm (Cát Lâm Nhai) để đóng trại. Nurhaci đã chi cho hai con trai mình là Hong Taiji và Daišan, mỗi người dẫn một kỳ, tấn công để kìm giữ quân Minh ở trại vách đá Cát Lâm, còn chính mình thì chỉ huy 6 kỳ còn lại để tấn công thẳng vào trại Sarhu.[6]

Quân Minh tại trại Sarhu đã tổ chức phản công vào quân Kim nhưng nhanh chóng bị rơi vào một cái bẫy phục kích trong khi truy đuổi và bị đẩy về phía dòng sông. Quân Minh đã cố gắng chống cự, nhưng kỵ binh của quân Kim nhanh chóng đè bẹp mọi kháng cự.[6]

Nurhaci sau đó tập trung tất cả lực lượng của mình chuyển sang phá trại do chính Đỗ Tùng chỉ huy. Đỗ Tùng và 2 phó tướng là Vương Thuyên và Triệu Mộng Lân đều tử trận. Đỗ Tùng chết vì một mũi tên được cho là của Laimbu, con trai thứ 13 của Nurhaci. Sau khi tiệu diệt hoàn toàn cánh quân Tây lộ, quân Kim nhanh chóng chuyển quân sang phía Đông Bắc, chuẩn bị công kích cánh Bắc lộ quân do Mã Lâm chỉ huy đang tiến đến Thượng Giám Nhai.[7]

Bắc lộ

Khi nhận được tin thất trận do các tàn quân Tây lộ đưa về, Mã Lâm càng thận trọng hơn. Ông ta chia lực lượng của mình, hợp cùng các tàn quân của Đỗ Tùng tập hợp lại, lập thành ba trại kiên cố tại Thượng Giám Nhai, bảo vệ bởi hỏa pháo và chiến lũy.[7]

Nurhaci tập trung lực lượng đánh thẳng vào trại do Mã Lâm trực tiếp chỉ huy. Lực lượng kỵ binh của Nurhaci tấn công cực nhanh làm vô hiệu hóa hỏa lực từ các hỏa pháo bắn chậm của quân Minh, vốn chỉ kịp khai hỏa được một lượt trước khi bị quân Kim áp sát. Quân Minh hoảng loạn và bị kỵ binh Kim tiêu diệt hoàn toàn. Chủ tướng Mã Lâm đã trốn thoát trong khi một nửa quân Minh bị giết hoặc bị bắt. Hai trại còn lại cũng tự động tan vỡ khi nhận được được tin trại chính đã bị tiêu diệt.[7]

Đông lộ

Trước tin thất bại của cả Tây lộ và Bắc lộ liên tiếp báo về, Dương Cảo bèn ra lệnh cho 2 cánh quân còn lại rút lui và tập hợp lại, nhưng lệnh đã không đến được với Lưu Đinh.[7] Vì vậy, cánh quân Đông lộ vẫn tiếp tục tiến sâu hướng về Hetu Ala.

Quân Kim sau đó quyết định chọn tấn công cánh quân Lưu Đinh tiếp theo, vì cánh quân Nam lộ của Lý Như Bá chủ yếu đi qua những con đường núi, do đó sẽ tiến chậm hơn và dễ dàng chặn đứng. Khác với Đỗ Tùng và Mã Lâm, cánh quân Nam lộ đã thu được một vài thắng lợi trong việc đánh bại các toán trinh sát của quân Kim, hạ được 3 đồn, giết chết 2 tướng Kim và làm thương vong 3.000 quân Kim.[8]

Nurhaci và Daišan trở về Hetu Ala với 4.000 quân để hồi phục.[7] Trước khi rời đi, Nurhaci đã ra lệnh cho một số binh lính Kim cải trang thành quân Minh và trà trộn vào cánh quân của Lưu Đinh. Các điệp viên Kim đã làm giả thư của Đỗ Tùng gữi cho Lưu Đinh, nói rằng Tây lộ quân đã tiếp cận Hetu Ala, yêu cầu Lưu Đinh phải tăng tốc độ hành quân. Lưu Đinh bị mắc bẫy và việc tăng tốc độ hành quân đã làm cho đội hình hành quân của Đông lộ quân mất đi sự liên kết khi họ tiến sâu vào một thung lũng.[7]

Đông lộ quân bị quân Kim phục kích ở đèo Abudali (阿布達 里, A Bố Đạt Lý), cách Hetu Ala khoảng 60 dặm, khi toàn bộ đội hình đang đi qua một thung lũng. Sau cuộc công kích của quân Kim, do Daišan rồi sau đó là của Hong Taiji, Đông lộ quân thương vong nặng nề với khoảng 3.000 quân Chiết Giang và hơn 7.000 quân H'mong bị giết. Lưu Đinh tử trạn trong đám loạn quân sau khi đích thân giết được một số lính Kim.[7]

Lực lượng Joseon gồm 10.000 quân cấm vệ và 3.000 cung thủ bị cản trở bởi cơn gió khắc nghiệt. Cung thủ Joseon đã bắn những mũi tên không có đầu vì họ không có ý định chiến đấu. Tuy nhiên, các cấm vệ quân đã chiến đấu rất dũng cảm cho đến khi các đồng minh của họ đầu hàng. Sự dũng cảm của các binh sĩ cấm vệ Triều Tiên được hoàng đế nhà Thanh tương lai Hong Taiji đánh giá cao, vì vậy ông đã tha chết cho chỉ huy quân Joseon là Gang Hong-rip và các cấm vệ quân còn sống sót.[9]

Nam lộ

Cánh quân Nam lộ do Li Rubai chỉ huy trong khi chật vật hành quân trên đường núi thì nhận được lệnh rút lui. Tuy Nam lộ quân không có thương vong nào do sự công kích nào của quân Kim, [9] nhưng sự hoảng loạn của quân Minh, cộng với các toán quân nghi binh của quân Kim, đã làm cách quân này thương vong hàng hàng binh sĩ trong quá trình rút chạy.

Liên quan